“Kiến trúc bắt đầu khi bạn cẩn thận đặt hai viên gạch lại với nhau. Đó là nơi nó bắt đầu”. Nó có thể được nói bởi bất kỳ người khổng lồ nào khác trong lĩnh vực kiến trúc.

Nếu bạn nghĩ rằng những ngôi nhà đơn giản, thưa thớt của thời kỳ Mid-century (Hiện đại giữa thế kỷ) trông rất tối giản, bạn nên ghi nhớ những gì đã xảy ra trước đó. Ở phần lớn châu Âu và Đông Á, Chiến tranh thế giới thứ II đã biến nhà ở thành đống đổ nát. Đây là một phần lý do tại sao trong phần giới thiệu của Dominic Bradbury về Atlas of Mid-Century Modern House, ông mô tả giai đoạn giữa thế kỷ này là một sự khởi đầu mới.
“Sự tàn phá toàn cầu, sự di dời và bạo lực do Thế chiến II mang lại đã nhường chỗ cho một thời kỳ tái thiết ở châu Âu, Nhật Bản và các khu vực khác trên thế giới đã phải hứng chịu trong những năm xung đột,” Bradbury viết.
Hoa Kỳ là quốc gia được hưởng lợi từ sự xuất hiện của nhiều kiến trúc sư và nhà thiết kế có ảnh hưởng lớn — những người đã chạy trốn khỏi sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít châu Âu vào cuối những năm 1930 và định cư tại đây. “Trong số họ có một loạt các kiến trúc sư tiên phong theo chủ nghĩa Hiện đại, từng giảng dạy tại Bauhaus, bao gồm Walter Gropius, Marcel Breuer và Ludwig Mies van der Rohe.”
Quan trọng hơn, họ bắt đầu giảng dạy ở Mỹ (tại Harvard và Viện Công nghệ Illinois ở Chicago) và giúp truyền cảm hứng cho các thế hệ kiến trúc sư Mỹ trẻ hơn. Họ cũng bắt đầu thực hành kiến trúc tại đây, thiết kế nhà ở và nhiều dự án khác trong suốt giai đoạn giữa thế kỷ.
Họ mang theo những nguyên tắc của Bauhaus và Chủ nghĩa Hiện đại thời kỳ đầu, nhưng đã điều chỉnh những bài học này cho phù hợp với bối cảnh của Mỹ. “Nước Mỹ nợ Gropius, Breuer và Mies, cũng như người đồng cấp Le Corbusier, cùng với những phát triển kỹ thuật cho phép các công trình kiến trúc đầy tham vọng hơn được xây dựng trên khắp Hoa Kỳ.”
Các kết cấu khung bằng thép và bê tông đã loại bỏ nhu cầu sử dụng gạch và tường xây chịu lực, cho phép bố trí linh hoạt hơn trong không gian nội thất. Việc sử dụng tường rèm (curtain wall) mang lại cảm giác minh bạch chưa từng có, khi ranh giới giữa không gian bên trong và bên ngoài trở nên mờ nhòe, tạo nên sự kết nối sôi động và gần gũi hơn với môi trường xung quanh.

Ở California, những kiến trúc sư tiên phong như Richard Neutra và Albert Frey đã kết hợp các quy tắc của Chủ nghĩa Hiện đại sơ khai và Phong cách Quốc tế với bối cảnh trong lành, thoáng đãng của khí hậu Bờ Tây Hoa Kỳ.
Trong khi đó, ở phía bên kia Đại Tây Dương, một phong cách khác đã được áp dụng. “Thiết kế Bắc Âu gắn liền với ‘Chủ nghĩa Hiện đại mềm mại’, truyền tải cảm giác ấm áp và chào đón thông qua việc tập trung vào vật liệu tự nhiên như gỗ và đá, đồng thời chú trọng đến lò sưởi – trái tim của ngôi nhà.”
Một cách tiếp cận tương tự cũng được phát triển tại Nhật Bản, dù kết quả mang bản sắc riêng. Nhiều ngôi nhà ở Nhật Bản những năm 1950–1960 thể hiện niềm đam mê đối với không gian mang bảng màu tự nhiên, như có thể thấy trong tác phẩm của các kiến trúc sư Masako Hayashi và Junzo Yoshimura.
Ở Mỹ Latin, một hướng đi khác lại được hình thành. Các nhà thiết kế nội thất như Sergio Hernandez và Joaquim Tenreiro đã sáng tạo nên nhiều tác phẩm xuất sắc, trong khi các kiến trúc sư như Lina Bo Bardi, Sergio Bernardes, Rino Levi và dĩ nhiên Oscar Niemeyer đã tạo dựng nên các công trình mang tính độc đáo, sáng tạo và phù hợp với ngữ cảnh địa phương.
Tại Mexico, kiến trúc sư Luis Barragán trở thành một trong những nhân vật kiệt xuất của thời kỳ này. Bên cạnh ông còn có Francisco Artigas, Augusto Alvarez, José María Buendía, Félix Candela, Max Ludwig Cetto và nhiều tên tuổi khác — tất cả đã góp phần làm phong phú thêm di sản kiến trúc Mexico trong những năm 1950–1960.