top of page

Mỹ thuật đương đại Việt Nam: Hành trình của Lê Phổ từ những ngày đầu tiên đến năm 1937

Mặc dù qua đời đã được tròn 10 năm, song hiện tại Lê Phổ vẫn dẫn đầu danh sách các họa sĩ Việt Nam có tranh được bán nhiều và cao giá nhất. Họa sĩ Lê Phổ còn được lịch sử ngành thời trang ghi nhận là người góp phần quan trọng trong việc cải tiến chiếc áo thụng xưa thành chiếc áo dài truyền thống gần với chiếc áo dài duyên dáng mà các thiếu nữ Việt Nam vẫn mặc hiện nay...

1907-1924: Khởi đầu của một danh họa

Lê Phổ được sinh ra vào ngày 02 tháng 08 năm 1907 trong một gia đình Việt Nam kiểu mẫu tại Hà Nội. Bố ông, Lê Hoan là một quan lại dưới thời Pháp thuộc. Được lớn lên trong một gia đình hiển hách, ông được học cả chương trình giáo dục bằng tiếng Trung và Pháp. Khi ông 16 tuổi, ông ghi danh vào Trường Chuyên Hà Nội, nơi này còn có tên gọi là Trường Mỹ Thuật Ứng Dụng. Ở đây, ông được học cơ bản về cách vẽ tranh, tỉ lệ và màu sắc. Khi ấy, ngôi trường này được nhận định là nơi đào tạo ra những ứng viên tài năng cho Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Trong thời kỳ này, Lê Phổ chỉ có 3 bức tranh sơn dầu được biết đến, và đều được sáng tác vào năm 1924 – khi ông chỉ mới 17 tuổi. Hiện giờ những bức tranh này đang được lưu trữ tại các bộ sưu tập tư nhân. Những nét vẽ đặc trưng mang đậm phong cách Trường Chuyên Hà Nội của Lê Phổ được thể hiện trên những bức chân dung ông vẽ cho bố, chị gái và người anh cùng cha khác mẹ.

1925-1930: Đông Phương học và chủ nghĩa Gauguin

Năm 1925, khi Lê Phổ dự thi vào Trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, ông xếp thứ 9 trong số 270 thí sinh. Ở ngôi trường này, buổi sáng sinh viên sẽ được họa sĩ nổi tiếng người Pháp Joseph Inguimberty đào tạo các khóa vẽ, tô màu hoặc điêu khắc trực tiếp theo mẫu, trong khi buổi chiều sẽ nghiên cứu nghệ thuật trang trí Đông Á do họa sĩ Việt Nam và cũng là người đồng sáng lập ngôi trường này – hiệu trưởng Nam Sơn giảng dạy. Từ năm 1926 đến năm 1930, Lê Phổ cũng theo học Stéphane Fernand Brecq, Antoine Ponchin, và Paul-Émile Legouez, với hai năm cuối cùng dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Victor Tardieu, đồng sáng lập và hiệu trưởng của trường. Trong những năm nền tảng này, Lê Phổ đã trau dồi kỹ thuật sơn dầu của mình và học vẽ tranh trên lụa. Ông cũng học về nghệ thuật sơn mài. Mỗi ngày sau giờ học, Lê Phổ thường đến thư viện của trường để đọc sách về nghệ thuật điêu khắc thời Đường và thời Hán, hội họa nhà Tống và nhà Minh cũng như các tài liệu tham khảo về nghệ thuật trang trí từ các quốc gia và thời kỳ khác nhau. Ông nhận thấy rằng thư viện này thiếu sách về mỹ thuật Việt Nam mà lúc đó chỉ có thể được nghiên cứu một cách không chính thức thông qua quan sát cá nhân vì nó không được coi là một nét son trong lịch sử nghệ thuật. Tardieu đặt mục tiêu cho học sinh của mình rất rõ ràng: “Dẫn dắt cảm nhận, tránh đi sai hướng và thấm nhuần những giá trị xưa cũ”. Trong chuyến công tác này, ông bày tỏ quan điểm của mình về sự tuột dốc của mỹ thuật Việt Nam, với cốt lõi là chủ nghĩa thực dân và Đông Phương học, là cơ sở sáng lập của ngôi trường này.

Nét son trong công tác của Lê Phổ trong thời gian này được gắn mốc nhờ sự bùng nổ của Đông Phương học tại nơi này. Không có bức tranh nào của ông thể hiện về thực dân Pháp. Dưới sự động viên nhiệt tình của các giáo viên của mình, Được sự khuyến khích của các giáo viên của mình, ông đã mang cho những bức tranh của mình “một hồn Á Đông thật sự, một tân Á Đông”, học giả Edward Said đã thốt ra như vậy. Lê Phổ đặc tả vô cùng kĩ càng mỗi tác phẩm của mình – những chi tiết tinh tế trên quần áo, kiến trúc và nội thất chính xác đến từng chi tiết. Chúng nhằm thể hiện những hình ảnh về một Việt Nam yên bình và lý tưởng. Ông ưa thích những khung cảnh trầm lắng và những con người sinh sống trong cái dung dị ấy. Với ánh nhìn xa xăm, họ chìm vào hư không, trong tâm hồn của chính họ.Có thể dễ dàng nhận thấy nét riêng của Lê Phổ đã bắt đầu bộc lộ trong tác phẩm của ông ấy, những nét vẽ của ông trở nên có lực và phóng khoáng hơn. Mốc son này được đánh dấu bằng việc ông sử dụng những đường viền tối màu không được báo trước theo phong trào hội họa Chủ nghĩa tượng trưng. Những ảnh hưởng như vậy cũng xuyên suốt trong quá trình đặc tả thực vật của ông: lá và thân cây được kéo dài ra hoặc xoắn lại, gợi nhớ đến các tác phẩm của Maurice Denis.

Năm 1930, Lê Phổ hoàn thành bức “L’âge heureux” – một trái ngọt cho hành trình 5 năm của ông cũng như là một sự tôn kính đối với Paul Gauguin. Bức tranh này đã mang về cho ông huy chương bạc tại “Salon des artistes français” vào năm 1932 ở Paris. Bố cục tranh được chia thành hai phần là đồi và hồ. Hòa vào bức tranh, cây cỏ được cách điệu, tôn lên người phụ nữ trẻ lặng lẽ ngồi ở phía trước và tạo nên một cuộc đối thoại vô hình. Lời tự sự của bức tranh làm ta gợi nhớ đến tác phẩm Tahitian của Gauguin vào những năm 1890. Mặc dù các tiết học về lịch sử nghệ thuật tại trường không bao gồm các phong trào hiện đại, sinh viên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương cũng được giáo dục thông qua thực hành và giảng dạy của các giáo sư của họ. Đối với các họa Việt Nam, điều này đã tạo ra sự gắn kết giữa Chủ nghĩa tượng trưng và Chủ nghĩa tổng hợp và mỹ thuật Á Đông. Chính nhờ những ảnh hưởng này mà tác phẩm của Lê Phổ trong thời kỳ này mang đậm phong cách tranh ảnh Việt Nam. Nguyễn Thụy, một sinh viên khác tại trường đã nói: “Chúng tôi gần như đã có mỹ thuật Trung Quốc trong tay nhưng chúng tôi vẫn tìm kiếm nó phía bên kia nơi đại dương bao la”.

1931–1932: Triển lãm Quốc tế

Vào mùa xuân năm 1931, chỉ mới một năm sau khi tốt nghiệp, Lê Phổ được Tardieu cử đến Paris để làm việc cho Pierre Guesde, lúc đó là Hội trưởng của Hiệp hội kiến trúc Đông Dương cho “Triển lãm thuộc địa Paris”. Lê Phổ phụ trách triển lãm của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được trưng bày bên trong bản sao đồ sộ của Angkor Wat, được dựng lên ở Bois de Vincennes. Ông ấy miệt mài hoàn thiện từng chi tiết nhỏ trong nhiều tuần liền và không hề rời khỏi nơi ấy. Ông quyết định vị trí của từng bức tranh trên tường, xem xét kĩ lớp sơn phủ cuối cùng trên các tác phẩm điêu khắc và đảm bảo rằng không có gì bị hư hại trong quá trình xử lý. Trong số hàng trăm tác phẩm nghệ thuật được trường gửi sang Paris, Lê Phổ chọn những món quà lưu niệm của L’âge heureux và Tristes, một cặp bài trùng về màu sắc và phong cách, hệt như bức tranh về người vxu công Việt Nam cao 4 mét hoành tráng được giới thiệu vào năm trước tại Anvers, Bỉ. Lê Phổ cũng đã tạo ra một số tác phẩm sơn mài, bình phong và nhiều đồ nội thất được trưng bày. Buổi triển lãm đã vô cùng thành công, được báo chí và các nhà phê bình hoan nghênh bất chấp những phe đối lập chống thực dân do cả hai nhóm người Pháp và Việt Nam dẫn đầu.

Sự kiện này đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp của Lê Phổ. Lần đầu tiên tác phẩm của ông được trình diện trước một đám đông lớn và quốc tế với khoảng tám triệu du khách, được báo chí đưa tin rộng rãi và tạo nên tiếng vang cho ông. Theo nhà sử học nghệ thuật Phoebe Scott, đây cũng là một bước tiến quan trọng đối với vai trò giám tuyển của Lê Phổ, làm cho ông phát triển tầm nhìn toàn diện hơn về mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Hơn nữa, buổi triển lãm này là cơ hội để Lê Phổ lần đầu tiên rời Việt Nam và khám phá châu Âu. Nghệ sĩ Vũ Cao Đàm – người bạn thân thiết của ông đã cùng ông đến Paris vào tháng 12 năm đó. Sau khi đăng ký học tại École du Louvre để nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Trung Quốc, Lê Phổ vào École Nationale des Beaux-Arts để tiếp tục hoàn thiện kho tàng tri thức về nghệ thuật của mình.

Tại “Prima Mostra Internazionale d’arte Coloniale” ở Rome, Ý, vào mùa đông năm 1931, trước chuyến đi của mình, Lê Phổ đã giới thiệu 3 bức tranh được thực hiện tại Hà Nội. Một bức ảnh được chụp lại cho thấy người họa sĩ và giá vẽ bên cạnh anh ta được bao quanh bởi ba bức tranh sơn dầu. Tất cả đều cho thấy một sự thay đổi đáng kể trong cách tiếp cận nghệ thuật hiện đại của ông. “Jeune fille en blanc” thể hiện một tác phẩm Đông phương không quá khác biệt so với các tác phẩm trước đây của ông. Tuy nhiên, cách ông thể hiện kiến trúc trong phông nền phía sau cho thấy kỹ năng của ông đã vượt xa lúc trước. Với “Femme nue” , còn được gọi là “Extase”, đã được Lê Phổ đã thể hiện ở một góc nhìn hoàn toàn mới. Mượn từ Gauguin để phỏng ra tư thế của người phụ nữ, bức tranh mô tả một người phụ nữ da trắng khỏa thân nằm trên sàn nhà trên tấm ga trải giường. Bình hoa đằng sau cô như là một lời sấm rằng Thánh nữ Maria biết mình đang mang trong mình đứa con của Chúa. Với bức tranh này, Lê Phổ đã phá vỡ các nguyên tắc của Nho giáo về sự e thẹn của phụ nữ, chế nhạo Giáo hội Công giáo và lăng mạ trật tự thuộc địa. “Femme nue” đã đi ngược lại nhận định trước giờ của trường phái Đông Phương, là một phụ nữ da trắng được một nghệ sĩ da màu tình dục hóa. Tuy nhiên bức tranh bị cho là quá Tây và không tìm được người mua. Lê Phổ đã được kỳ vọng rằng những tác phẩm của ông sẽ không quá xa rời chủ đề về Việt Nam. Đối với một người họa sĩ, người đã gửi bức tranh táo bạo nhất trong sự nghiệp tuổi trẻ của mình, đó là một sự thật khó nuốt trôi.Từ đó, Lê Phổ đặt cho mình một sứ mệnh mới, tìm kiếm một bản sắc có thể chấp nhận những ràng buộc đó và thăng hoa chúng thành một dấu ấn trong phong cách cá nhân của mình. Ông cũng đã cùng Tardieu đến Pháp để tham dự Triển lãm thuộc địa quốc tế và khám phá vùng đất Tây Âu. Hành trình của họ nằm trong chương trình mà Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đăng kí tham dự. Ngoài việc du đãng qua các vùng nông thôn của Pháp, họ còn đến Ý, nơi họ thăm Fiesole, Florence, và có lẽ là Rome. Họ cũng đã đến Hà Lan, đến Bruges ở Bỉ và đến Đức, nơi tổ chức hội chợ ở Cologne. Từ chuyến du lịch lớn này, Lê Phổ đã mang về những bản kí họa kiến trúc và phong cảnh hơn là việc chép tranh của các họa sĩ đại tài. Cuốn tiểu sử trữ tình của Lê Phổ do nhà sử học nghệ thuật George Waldemar xuất bản năm 1970 nhấn mạnh về sự xuất hiện của nghệ thuật thời kì Phục Hưng trong những đứa con tinh thần của ông. Tác phẩm của các danh họa thế kỷ 15 như Jean Fouquet, Sandro Botticelli và Hans Memling đã có tác động lớn đến tâm tưởng của Lê Phổ. Sự mảnh mai, sự tinh tế của các chi tiết, sự nhịp nhàng của đường nét và giá trị biểu tượng của các họa tiết dường như không quá khác biệt so với hội họa Trung Quốc hoặc Nhật Bản. Ảnh hưởng của chuyến đi này đối với công tác của Lê Phổ mới đầu vẫn chưa thấy nhiều, nhưng về nó liên tục xuất hiện trong tác phẩm của ông.

1932–1937: Những năm cuối tại Việt Nam

Khi về nước, Lê Phổ được bổ nhiệm làm giáo viên dạy vẽ tại Lycée Albert Sarraut, Hà Nội. Trong thời gian công tác, tính cả thời gian dạy học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, sự nghiệp dạy học của Lê Phổ kéo dài bảy năm, hướng dẫn các học trò như Lưu Văn Sìn và Nguyễn Gia Trí. Các vị trí giảng dạy được các sinh viên tốt nghiệp săn đón nhiều, rất nhiều người trong số họ đang phải vật lộn để có được thu nhập ổn định sau khi rời ghế nhà trường. Khách hàng của mỹ thuật hiện đại Việt Nam thời gian này rất ít và những đơn hàng đặt vẽ cũng rất hiếm. Các nhà báo chỉ trích rằng ngôi trường này làm xã hội Việt Nam tha hóa bằng cách bắt con trai của họ đi, và không để lại cho họ điều gì như là mục đích sống và việc làm, mà chỉ có đau khổ, ảo tưởng và cay đắng. Lê Phổ may mắn vượt qua được giai đoạn bấp bênh đó và một tờ báo khác đưa tin rằng Lê Phổ và Mai Trung Thứ bị nhiều học trò cũ ghen tị. Trong khi Mai Trung Thứ được cử đi dạy học ở Huế, Lê Phổ ở miền Bắc. Trong thời gian này có lễ ông đã quay trở lại xưởng vẽ cũ của mình, nơi có hồ nước khi xưa vì người ta nhận ra trong tranh của ông những phong cảnh ven hồ và những chiếc phà như trước kia.

Năm đó Lê Phổ cũng giới thiệu bức tranh lụa đầu tiên của ông: “La cueillette des simples” . Bức tranh cũng có cùng một hồ nước và thể hiện mối liên hệ giống nhau về độ sâu xoắn, nhưng dường như đã lĩnh hội được bài học của họa sĩ lụa Nguyễn Phan Chánh, người đã rất thành công trong “Triển lãm thuộc địa quốc tế”. Thật vậy, Lê Phổ áp dụng một bố cục tối giản xoay quanh ba nhân vật được đặt trong một bố cục hình chóp thường thấy trong tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh. Tranh lụa có một sự mơ hồ ảo diệu được mọi người công nhận là một kỹ thuật đặc biệt của Việt Nam, một sự tôn vinh của các nghệ sĩ hiện đại đối với nền văn hóa truyền thống, và nó cũng được Tardieu cho là sáng kiến của mình. Sau đỉnh cao phát triển khi được các họa sĩ Việt Nam sử dụng rộng rãi trong thế kỷ 15, tranh lụa cuối cùng đã dần được thay thế bằng tranh giấy. Ở các nước láng giềng như Trung Quốc và Nhật Bản, tranh lụa không bao giờ biến mất và chính cách làm của họ đã truyền cảm hứng cho Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Vào thời điểm này, “Cueillette des simples” của Lê Phổ đã được gửi đến Paris và nó đã được mua ngay lập tức trước khi được đóng khung. Đó là một thành công đối với người nghệ sĩ đã thử thách bản thân và mang đến một tác phẩm vừa hấp dẫn người sưu tầm đồng điệu với nghệ thuật của mình. Bạn của ông là Vũ Cao Đàm viết cho Tardieu, “Tôi rất vui khi thấy rằng các đồng nghiệp của tôi giờ đây đã hiểu rằng tranh lụa mới là miền đất hứa của riêng họ”.Sau khi Lê Phổ đến thăm Campuchia vào năm 1936, thì chuyến đi đến Trung Quốc năm 1934 mang dấu ấn sâu sắc đối với sự nghiệp của ông. Lần đầu tiên ông được tiếp xúc với các bộ sưu tập của cha mình – Thống đốc Lê Hoan, và sau này thông qua các nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật châu Á tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Lê Phổ đã không ngừng mở rộng kho tàng tri thức của mình về mỹ thuật Trung Quốc. Tại Bắc Kinh, ông đã đến thăm Bảo tàng Cố Cung, một hoàng thành trước đây của nhà Thanh đã trở thành triển lãm công cộng từ năm 1925. Mặc dù một năm trước chuyến thăm của ông, bảo tàng đã tháo dỡ nhiều bộ phận vì sợ Nhật Bản xâm lược, Lê Phổ vẫn có thể chiêm ngưỡng một một phần nhỏ của các bộ sưu tập đồ sộ. Những kiệt tác hội họa, sơn mài và đồ trang sức mà ông quan sát được có tác dụng to lớn đối với người nghệ sĩ và nuôi dưỡng sở thích ngày càng tăng của ông đối với sự cầu kỳ và mỹ học.Lê Phổ tiếp tục tham quan Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, nơi lưu giữ những cổ vật vô giá như đá chạm khắc, đồ gốm và đồ đồng. Ở đây ông biết thêm những bài học về khối lượng và chất liệu. Lê Phổ cũng có vinh dự được giới thiệu với các nhà sưu tập tư nhân đang hứng thú với tác phẩm của ông. Trở lại Hà Nội, ông bắt đầu nghiền ngẫm thành quả của chuyến đi này. Trong xưởng vẽ của mình, ông bắt tay vào sáng tác một bức tranh lụa mới, tổng hợp những suy tư của ông về vai trò của nghệ thuật Trung Quốc và Việt Nam trong tác phẩm của mình. “Femme assise” đã gợi lên những bức chân dung đầu tiên loài người để lại mà ông đã xem ở Trung Quốc, hình dáng thuôn dài của nó tập trung vào một nhân vật trung tâm với màu son đất ôm lấy nhân vật ấy. Tuy nhiên, người phụ nữ ngồi trên sàn nhà, do đó ám chỉ chân dung tổ tiên người Việt cổ hơn là người Trung Quốc. Trong bức tranh đó, bức tranh treo sau lưng người phụ nữ là một loại tranh đặc biệt của mỹ thuật Việt Nam, một loại tranh in hình hổ phổ biến, được các nghệ nhân khắc gỗ bày bán trong các dịp lễ hội. Qua đó, Lê Phổ đã cho mọi người thấy ý chí xây dựng phong cách riêng của mình, được nuôi dưỡng không chỉ bởi những lời dạy của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương mà còn thông qua lịch sử nghệ thuật Việt Nam và góc nhìn văn hóa của riêng mình, và nó được thúc đẩy từ chuyến đi đến Trung Quốc.

Cái nhìn sâu sắc về nghệ thuật Việt Nam của Lê Phổ còn được bộc lộ qua những nơi chốn xuất hiện phía sau những chân dung trong tác phẩm của ông. Tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, vẽ chân dung đã bị xem nhẹ nhưng nó là một phần thiết yếu của lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Nó là thể loại nghệ thuật phổ biến nhất sau điêu khắc tôn giáo. Mang trong mình niềm tin Phật giáo và Nho giáo, chân dung là một khía cạnh không thể bỏ qua của nghệ thuật Việt Nam và có thể được quan sát ở khắp mọi nơi từ chùa chiền đến bàn thờ trong nhà và không gian công cộng. Năm 1926, vài tháng sau khi khai trương Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tổng đốc Hoàng Trọng Phu đề nghị nhà trường nên đào tạo những họa sĩ vẽ chân dung, những người có thể đảm bảo sẽ có lượng khách hàng không nhỏ trong giới tư sản Việt Nam. Một bức chân dung sơn dầu có niên đại năm 1935 được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia Việt Nam mô tả một người phụ nữ ngồi trên ghế. Những sắc độ mạnh mẽ thể hiện nên cảm xúc của người phụ nữ cho thấy hiểu biết thâm sâu của Lê Phổ về các phong trào đương đại như Art Déco. Biểu cảm của nàng rất có linh tính và u sầu, một đặc điểm dễ nhận thấy trong tác phẩm của Lê Phổ. Khi ông thông suốt được sức hấp dẫn của vẽ chân dung, lượng khách hàng bản địa của ông ngày càng tăng. Ông được vua Bảo Đại mời vào Huế và vẽ chân dung của ông và vợ ông, Hoàng hậu Nam Phương. Kể từ khi đến thăm Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1933, vua Bảo Đại đã bày tỏ sự ngưỡng mộ với những bức chân dung của Lê Phổ và nó đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ông. Trong thời gian ở hoàng thành, Lê Phổ cũng được yêu cầu thực hiện trang trí sơn mài, áp dụng kinh nghiệm mà ông có được vào năm 1931 khi Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier giao nhiệm vụ cho ông trang trí sơn mài cho dinh thự của mình. Tại hội chợ do Société Annamite d’Encouragement à l’Art et à l’Industrie ra mắt vào năm 1935, Lê Phổ đã trình bày ba bức chân dung, thể hiện sự thay đổi trong sự nghiệp của ông kể từ khi “Triển lãm quốc tế” nơi ông giới thiệu ba bức tranh với thể loại khác nhau. Một trong những bức chân dung đó miêu tả vị quan có tư tưởng cầu tiến Hoàng Trọng Phu, bạn cũ của anh rể Lê Phổ. Trong bức chân dung toàn thân này, vị quan đi chân trần – một cách thể hiện khá lạ. Lê Phổ đã tìm cảm hứng trong một bức ảnh cũ của cha ông là Lê Hoàn. Những bức tranh phong cảnh mà ông vẽ vào thời điểm đó dần chuyển sang cách điệu hơn về màu sắc, khối lượng và hình thức của chúng. Điều thú vị là nó thể hiện được mối tương quan hài hòa như trong nghệ thuật của Ý với sự thống nhất hài hòa giữa kiến trúc và thiên nhiên. Ngoài tranh chân dung, trong thời gian này Lê Phổ cũng sáng tác những bức tranh tĩnh vật lấy cảm hứng từ Trung Quốc, sự mạnh mẽ trong những bức tranh khác khi đến đây đã được nhu hòa.

Sự ham học hỏi của Lê Phổ với mỹ thuật Việt Nam không chỉ giới hạn ở hội họa và sơn mài, ông còn tìm hiểu về nghệ thuật trang trí và thời trang.Nghề dệt may thực sự là một phần quan trọng của thế hệ nghệ sĩ này. Các cựu sinh viên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã thử nghiệm và thiết lập một kỷ nguyên thời trang mới. Vào giữa những năm 1930 tại Hà Nội, những thiết kế đầu tiên của Lê Phổ được bán cho số ít bạn bè của ông trước khi ông bắt đầu mở một hãng thời trang thực sự. Những chiếc áo dài mà ông thiết kế có cổ tay áo dài màu trắng, có nếp gấp như trong các bức chân dung của triều đình thời Phục hưng mà ông rất thích ở Florence. Không chỉ sáng tạo trên quần áo, ông còn hứng thú với trang sức. Những tác phẩm ấy được phỏng theo những chất liệu truyền thống của Việt Nam, được khảm men thay vì bằng vàng, những sáng tạo của Lê Phổ được ảnh hưởng từ Art Déco.Là họa sĩ, nghệ sĩ sơn mài, giáo viên, nhà trang trí, nhà thiết kế thời trang và đồ trang sức, Lê Phổ đã gieo mầm hy vọng vào một kỷ nguyên mới của mỹ thuật Việt Nam. Từ cơ sở học thuật Đông Phương bao hàm di sản Việt Nam của ông và những sáng tạo của ông với mỹ học châu Âu và nghệ thuật cung đình Trung Quốc; Trải qua gần 15 năm, Lê Phổ đã không ngừng nỗ lực để phát triển nghệ thuật của mình, với sự quan tâm đến khán giả và mong muốn của bản thân, đồng hành cùng sự phát triển của nghệ thuật hiện đại Việt Nam. Năm 1937, Paris đang chuẩn bị cho một hội chợ quốc tế mới “Exposition internationale des Arts et des skills appqués à la vie moderne” (?) (chỗ này em không rõ lắm). Lê Phổ lên đường sang Pháp, ông sử dụng hiệu quả kỹ năng quản lý của mình trong việc thiết lập gian hàng Đông Dương theo cảm nhận và kiến thức sâu sắc của mình về nghệ thuật Việt Nam và châu Âu. Vài tuần sau khi Lê Phổ đến Paris, người cố vấn Tardieu của ông qua đời tại Việt Nam. Cha mẹ và chị gái của ông cũng đã mất từ lâu. Những người bạn của Lê Phổ là Lê Văn Đệ, Vũ Cao Đàm – những người đã có sự nghiệp huy hoàng ở châu Âu – họ đã trả lời báo chí rằng Lê Phổ biết đã đến lúc phải sang một chương mới trong đời tư và sự nghiệp của mình, ông ấy sẽ sẽ không trở lại Việt Nam, và từ đó nước Pháp từ đó trở thành quê hương mới của ông.

Nicolas Henni-Trinh Duc
Sotheby’s
bottom of page